Hơn
1,5
triệu
học
sinh
(HS)
và
110
nghìn
cán
bộ
giáo
viên
(CBGV)
ngành
GD&ĐT
Hà
Nội
đang
náo
nức
khí
thế
bước
vào
năm
học
mới
2013-2014.
Năm
học
bản
lề
thực
hiện
kế
hoạch
5
năm
2011-2015
và
cũng
là
năm
ghi
dấu
thời
điểm
5
năm
Hà
Nội
hợp
nhất
địa
giới
hành
chính.
Nhân
dịp
này,
PV
Tạp
chí
GĐTĐ
đã
có
cuộc
trao
đổi
với
NGƯT
Nguyễn
Hữu
Độ,
Thành
ủy
viên,
GĐ
Sở
GD&ĐT
Hà
Nội.
*
PV:
Năm
học
mới
2013-2014
cũng
là
thời
điểm
tròn
5
năm
Hà
Nội
hợp
nhất
địa
giới
hành
chính.
Hòa
chung
với
sự
phát
triển
của
Thủ
đô,
ngành
GD&ĐT
đã
có
những
bước
phát
triển
như
thế
nào,
thưa
Giám
đốc?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:
Việc
mở
rộng
địa
giới
hành
chínhbảo
đảm
cho
Thủ
đô
Hà
Nội
có
không
gian
đủ
lớncho
phát
triển
toàn
diện
và
bền
vững.Với
vị
trí
là
Thủ
đô
của
cả
nước,
ngành
GD&ĐT
Hà
Nội
đã
nỗ
lực
rất
lớn
để
đáp
ứng
được
những
yêu
cầu
phát
triển
mới
của
Thủ
đô.
Trong
đó,
nổi
bật
là
những
điểm
ấn
tượng
sau:
Đầu
tiên
đó
là
sự
đồng
thuận,
đoàn
kết
trách
nhiệm,
trí
tuệ
của
tập
thể
lãnh
đạo,
cán
bộ
quản
lý,
giáo
viên,
nhân
viên
từ
cơ
quan
Sở
GD&ĐT
đến
các
đơn
vị
trường
học
trong
toàn
ngành.
Khối
lượng
công
việc
lớn
hơn,
nhiều
việc
mới
và
khó
hơn
nhưng
chúng
ta
đã
cùng
phấn
đấu
khắc
phục
khó
khăn,
vượt
lên
chính
mình
để
hoàn
thành
tốt
nhiệm
vụ.
Ngay
sau
ngày
1/8/2008,
trong
1
tuần
Sở
GD&ĐT
Hà
Nội
đã
sớm
ổn
định
tổ
chức
bộ
máy,
biên
chế
đội
ngũ
cán
bộ
cơ
quan
Sở,
thành
lâp
thêm
2
phòng
mới
là
phòng
HSSV
và
phòng
GD
có
YTNN
đảm
bảo
đủ
điều
kiện
để
sẵn
sàng
đón
nhận
và
đáp
ứng
những
nhiệm
vụ
mới
của
ngành.
Sự
thay
đổi
về
quan
điểm
trong
đầu
tư
cho
lĩnh
vực
giáo
dục
và
đào
tạo.
Đó
là
sự
quan
tâm
đầu
tư
tập
trung
và
đồng
bộ
không
đầu
tư
dàn
trải,
chắp
vá.
Ngành
GD
đã
tham
mưu,
đề
xuất
và
được
UBND
Thành
phố
phê
duyệt
nhiều
chính
sách
quan
trọng
giúp
cho
giáo
dục
phát
triển.
Đó
là:
Kế
hoạch
số
86
về
việc
xoá
phòng
học
tạm,
phòng
học
cấp
4
xuống
cấp
giai
đoạn
2009
–
2010;
Đề
án
“Nâng
cao
chất
lượng
GDMN
Thành
phố
Hà
Nội
đến
năm
2015”;
Đề
án
xã
hội
hóa
giáo
dục;
Quyết
định
về
việc
tăng
định
mức
ngân
sách
của
thành
phố
cấp
trên
đầu
học
sinhtừ
1,8
triệu
lên
4
triệu;
với
cấp
học
MN
từ
2
triệu
lên
3,4
triệu;
ban
hành
QĐ
14
về
quản
lý
dạy
thêm
học
thêm,
để
thống
nhất
quản
lý
trên
4
địa
phương
sau
hợp
nhất;
Kế
hoạch
83
về
việc
đẩy
mạnh
ứng
dụng
CNTT
giai
đoạn
2012
–
2015;
Kế
hoạch
90
về
đẩy
mạnh
dạy
và
học
ngoại
ngữ
giai
đoạn
2011
–
2018;
TP
ban
hành
02
Quyết
định
về
Quy
hoạch
phát
triển
hệ
thống
GD&ĐT
và
Quy
hoạch
mạng
lưới
trường
học
trên
địa
bàn
Thành
phố
đến
năm
2020
và
tầm
nhìn
2030;
Kế
hoạch
111
về
xây
dựng
và
nâng
cao
chất
lượng
đội
ngũ
nhà
giáo
và
cán
bộ
quản
lý
giáo
dục
giai
đoạn
2011-2015...Đây
là
những
quyết
định,
đề
án,
kế
hoạch
quan
trọng
giúp
ngành
giáo
dục
có
nhiều
điều
kiện
thuận
lợi
để
ổn
định
và
từng
bước
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục,
góp
phần
thay
đổi
diện
mạo
ngành
GD&ĐT
Thủ
đô.
Công
tác
cán
bộ,
tổ
chức
bộ
máy
có
nhiều
đổi
mới.
Ngay
sau
hợp
nhất
thành
phố
đã
thực
hiện
việc
đổi
tên
một
số
trường
học
(do
bị
trùng
tên),
QĐ
giải
thể
8
trường
bán
công,
Thực
hiện
chuyển
các
trung
tâm
GDTX
thuộc
quận,
huyện
quản
lý
về
Sở
GD&ĐT
quản
lý.
Chuyển
đổi
mô
hình
357
trường
MN
bán
công
nông
thôn
thành
công
lập,
tuyển
dụng
mới
hơn
20.000
giáo
viên,
nhân
viên
các
cấp
đảm
bảo
đủ
số
lượng,
đáp
ứng
yêu
cầu
chất
lượng.
Cơ
sở
vật
chất
được
tăng
cường
đầu
tư
theo
hướng
đồng
bộ,
chuẩn
hoá
và
từng
bước
hiện
đại.
Phát
triển
hệ
thống
trường
đạt
chuẩn
quốc
gia
(CQG)
được
coi
là
một
trong
những
điều
kiện
quan
trọng
để
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục.
Số
trường
đạt
CQG
của
Hà
Nội
có
bước
phát
triển
đáng
kể.
Đến
nay,
toàn
TP
đã
có
768
trường
học
được
kiểm
tra,
thẩm
định,
đủ
điều
kiện
để
được
công
nhận
trường
CQG
đạt
tỷ
lệ
32,1%,
tăng
339
trường
so
với
năm
2008.
Thành
phố
về
cơ
bản
xóa
các
phòng
học
tạm,
phòng
học
nhờ
và
phòng
học
cấp
4
xuống
cấp,
thực
hiện
vượt
mức
kế
hoạch
đề
ra,
cụ
thể
là
xây
mới
để
thay
thế
được
hơn
6.500
phòng
học,
với
tổng
kinh
phí
hơn
2000
tỷ
đồng,
làm
cho
diện
mạo
các
nhà
trường
ở
Hà
Nội
ngày
càng
thay
đổi,
rút
ngắn
khoảng
cách
về
cơ
sở
vật
chất
giữa
các
trường
trong
toàn
Thành
phố.
Nhiều
công
trình
xây
dựng
cơ
bản
và
một
số
công
trình
trọng
điểm
được
tập
trung
đầu
tư,
như
Dự
án
THPT
chuyên
Hà
Nội
-
Amsterdam
kinh
phí
429
tỷ
đồng;
dự
án
XD
trường
THPT
chuyên
Nguyễn
Huệ
gần
300
tỷ
đồng;
Dự
án
XD
trường
Trung
cấp
đa
ngành
Sóc
Sơn
tại
huyện
Sóc
Sơn
là
158
tỷ
đồng.
Dự
án
XD
Trường
Bồi
dưỡng
cán
bộ
giáo
dục
với
kinh
phí
126
tỷ
đồng…
được
triển
khai
theo
hướng
hiện
đại,
chuẩn
hóa.
Chất
lượng
Giáo
dục
và
đào
tạo
có
nhiều
chuyển
biến
tích
cực.
Công
tác
chỉ
đạo
và
tổ
chức
các
kỳ
thi
tuyển
sinh,
tốt
nghiệp
THPT
đảm
bảo
chất
lượng,
có
biện
pháp
tích
cực
giúp
các
trường
còn
khó
khăn,
rút
ngắn
dần
khoảng
cách
về
chất
lượng
giáo
dục
giữa
các
trường,
giữa
các
vùng
miền.
Trong
5
năm,
tỷ
lệ
đỗ
tốt
nghiệp
THPT
tăng
và
giữ
trong
mức
ổn
định:
năm
2009:
88,28%;
2010:
94,63%;
2011:
97,79%;
2012:
98,24%;
2013:
97,12%.
Kết
quả
HS
thi
vào
các
trường
Đại
học
luôn
trên
điểm
sàn
của
cả
nước
từ
1
đến
1,5
điểm.
Đặc
biệt
số
lượng
học
sinh
đỗ
thủ
khoa
đầu
vào
các
trường
đại
học
ngày
một
tăng,
năm
2012
có
59
thủ
khoa
xuất
sắc.
Không
chỉ
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục
đại
trà,
Hà
Nội
luôn
giành
thành
tích
xuất
sắc
trong
các
kỳ
thi
học
sinh
giỏi
Quốc
gia
(cấp
THPT).
Năm
học
2008
-
2009:
107
giải;
2009
-
2010:
118
giải;2010
-
2011:
130
giải;
2011
-
2012:
125
giải
(tăng
6
giải
Nhất
so
với
năm
học
trước);
2012
-
2013:
130
giải
(tăng
5
giải
so
với
năm
học
trước),
đứng
đầu
toàn
quốc
về
số
lượng
giải
và
số
giải
Nhất.
Các
đoàn
HS
Hà
Nội
tham
dự
các
kỳ
thi
Olympic
quốc
tế
đạt
kết
quả
cao
với
tổng
số
32
giải,
trong
đó
có
01
Huy
chương
Vàng,
10
huy
chương
Bạc;
21
huy
chương
Đồng.
Năm
2012,
lần
đầu
tiên
đại
diện
cho
Việt
Nam
tham
dự
Hội
thi
nghiên
cứu
khoa
học
và
kỹ
thuật
dành
cho
HS
phổ
thông
(Intel
ISEF)
tổ
chức
tại
Mỹ,
HS
Hà
Nội
đã
đoạt
giải
Nhất
quốc
tế
thuộc
lĩnh
vực
Kỹ
thuật
điện
và
Cơ
khí;
năm
2013,
giành
giải
Tư
quốc
tế
tại
kỳ
thi
Itel
ISEF.
Như
vậy,
trong
5
năm
liền
từ
2008
đến
nay,
lần
lượt
các
đoàn
học
sinh
Hà
Nội
dự
thi
Quốc
tế
đều
đạt
giải
cao,
chất
lượng
và
số
lượng
giải
cũng
tăng
hàng
năm.
Chúng
ta
đã
tăng
cường
mở
rộng
hợp
tác
quốc
tế,
mở
rộng
quan
hệ
với
các
tỉnh,
thành
bạn.
Quan
hệ
quốc
tế
hữu
nghị
với
nước
bạn
Lào,
hợp
tác
tham
quan
học
tập
với
bang
Nam
Úc
–
Ôxtrâylia,
Singapore,
Malaysia.
Giao
lưu,
gắn
bó
với
các
tỉnh
Lai
Châu,
Điện
Biên,
Sơn
La,
Lạng
Sơn,
Lào
Cai,
Yên
Bái,
Quảng
Bình…
bằng
nhiều
hoạt
động
thiết
thực
như:
ủng
hộ
sách
vở,
tài
liệu,
đồ
dùng
học
tập,
quần
áo
và
tiền
để
hỗ
trợ
giáo
viên,
học
sinh
vùng
sâu,
trao
đổi
những
kinh
nghiệm
về
giáo
dục.
Trong
dịp
kỷ
niệm
1000
năm
Thăng
Long-
Hà
Nội,
ngành
GD
Thủ
đô
đã
biên
soạn
được
Bộ
tài
liệu
Giáo
dục
nếp
sống
thanh
lịch,
văn
minh
cho
HS
Hà
Nội,
đưa
vào
giảng
dạy
đại
trà
trong
các
nhà
trường.
Việc
xây
dựng
và
triển
khai
dạy
Bộ
tài
liệu
góp
phần
gìn
giữ,
phát
triển
văn
hóa
nghìn
năm
Thăng
Long,
xây
dựng
đội
ngũ
HS
thành
nhân
trước
khi
thành
tài,
có
kỹ
năng
sống,
giá
trị
sống.
Công
tác
quản
lý
nhiều
đổi
mới,
rõ
mục
tiêu
phấn
đấu,
rõ
phương
châm
thực
hiện.
Xây
dựng
được
nền
nếp
kỷ
cương
trong
quản
lý,
chỉ
đạo,
điều
hành.
Duy
trì
nền
nếp
giao
ban
định
kỳ
về
công
tác
giáo
dục
với
lãnh
đạo
các
quận,
huyện,
thị
xã,
nhờ
vậy
các
chủ
trương
phát
triển
giáo
dục
ở
từng
địa
phương
được
thực
hiện
nghiêm
túc,
có
trách
nhiệm
và
chất
lượng.
Việc
đầu
tư
CSVC
cho
giáo
dục,
xây
dựng
trường
CQG
được
quan
tâm;
Công
tác
thanh
kiểm
tra,
giải
quyết
khiếu
nại
tố
cáo
làm
kịp
thời
và
giải
quyết
dứt
điểm
nhiều
vụ
việ
*PV:
Bên
cạnh
những
thành
tích,
kết
quả
đã
đạt
được,
trong
5
năm
qua
còn
những
khó
khăn
gì
mà
ngành
GD&ĐT
Thủ
đô
cần
tháo
gỡ,
thưa
Giám
đốc?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:Sau
khi
được
mở
rộng
địa
giới,
Giáo
dục
Hà
Nội
có
quy
mô
lớn,
địa
bàn
rộng
và
đa
dạng,
dân
cư
phân
bố
không
đều.
Bên
cạnh
những
thuận
lợi,
Hà
Nội
vẫn
còn
một
số
khó
khăn
như
CSVC
trang
thiết
bị
trường
học
tuy
đã
được
đầu
tư
nhưng
còn
hạn
chế.
Một
số
trường
còn
có
sĩ
số
HS/lớp,
số
lớp/trường
còn
cao.
Đội
ngũ
GV
ở
một
số
quận
huyện
còn
chưa
đồng
bộ
về
cơ
cấu;
Tỷ
lệ
GV
có
trình
độ
trên
chuẩn
chưa
cao.
Một
bộ
phận
nhỏ
CBGV
còn
hạn
chế
về
trình
độ
ngoại
ngữ,
tin
học,
về
năng
lực
quản
lý
nhà
nước,
quản
lý
tài
chính,
về
đổi
mới
phương
pháp
dạy
học.
Tình
trạng
HS
bỏ
học
còn
tồn
tại
ở
một
số
huyện.
Chất
lượng
dạy
và
học
của
các
trường
chưa
đồng
đều,
khoảng
cách
về
chất
lượng
giữa
các
quận
nội
thành
và
các
huyện
vẫn
còn
chênh
lệch.
Việc
quản
lý
các
cơ
sở
giáo
dục
ngoài
công
lập
và
cơ
sở
giáo
dục
có
yếu
tố
nước
ngoài
cũng
còn
nhiều
hạn
chế…
*
PV:
Bước
vào
năm
học
mới
2013-2014,
ngành
GD&ĐT
Thủ
đô
sẽ
tập
trung
vào
những
nhiệm
vụ
trọng
tâm
nào,
thưa
Giám
đốc?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:
Năm
học
2013-2014,
toàn
ngành
tập
trung
nâng
cao
hiệu
lực,
hiệu
quả
công
tác
quản
lý
giáo
dục,
xây
dựng
nền
nếp
kỷ
cương
trong
toàn
ngành
vì
mục
tiêu
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục
thực
chất,
với
phương
châm
“kỷ
cương
nghiêm,
chất
lượng
thực,
hiệu
quả
cao”
và
thực
hiện
trường
3
Tốt:
“dạy
tốt,
học
tốt
và
quản
lý
tốt”.
Năm
học
này,
chúng
ta
sẽ
bắt
tay
nhân
rộng
các
mô
hình
mới,
trong
đó
sẽ
triển
khai
quyết
liệt,
mạnh
mẽ
mô
hình
trường
công
lập
CLC;
đồng
thời
quan
tâm
mở
rộng
mô
hình
trường,
lớp
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
học
tập
nhân
dân.
Triển
khai
mô
hình
Trường
học
mới
VNEN,
phương
pháp
“bàn
tay
nặn
bột”.
Tăng
cường
quản
lý,
đổi
mới
dạy
học
tạo
sự
chuyển
biến
về
chất,
thực
hiện
hiệu
quả
chủ
trương
đổi
mới
căn
bản
toàn
diện
nền
giáo
dục.
Từng
buớc
chuyển
từ
việc
dạy
học
truyền
thụ
kiến
thức
sang
dạy
học
hướng
theo
năng
lực
người
học
trên
quan
diểm
“Dạy
ít-
học
nhiều”,
tránh
nhồi
nhét
kiến
thức,
khuyến
khích
học
sinh
tự
học,
tạo
điều
kiện
để
HS
được
làm
việc
theo
nhóm....Phấn
đấu
trong
năm
2013,
Thành
phố
hoàn
thành
phổ
cập
Giáo
dục
MN
cho
trẻ
5
tuổi,
hoàn
thành
phổ
cập
GDTH
đúng
độ
tuổi
cấp
độ
2
và
phổ
cập
GD
trung
học
về
trình
độ.
Tiếp
tục
đầu
tư,
nâng
cao
hơn
nữa
chất
lượng
giáo
dục
đại
trà
trong
đó
chú
trọng
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục
mũi
nhọn.
Tăng
cường
giáo
dục
đạo
đức,
kỹ
năng
sống,
kỹ
năng
mềm,
giáo
dục
quốc
phòng
an
ninh
cho
HS.
Chấn
chỉnh
dạy
thêm,
học
thêm
trong
các
nhà
trường
theo
QĐ
22
của
UBND
Thành
phố.
Một
trong
những
nhiệm
vụ
quan
trọng
nữa
là
tiếp
tục
đẩy
mạnh
đầu
tư
cơ
sở
vật
chất,
chú
trọng
đầu
tư
CSVC
cho
các
trường
THPT,
TT
GDTX
và
tập
trung
chỉ
đạo
xây
dựng
trường
CQG,
nhất
là
ở
các
địa
bàn
đạt
tỷ
lệ
thấp.
Bên
cạnh
đó,
quan
tâm
bồi
dưỡng
đội
ngũ,
nâng
cao
năng
lực
người
thầy
giáo
trong
xu
thế
hiện
nay.
Chúng
ta
đào
tạo,
bồi
dưỡng
những
người
thầy
dạy
chứ
không
phải
thợ
dạy.
Người
thầy
giáo
dạy
cần
dạy
HS
bằng
cả
nhân
cách
của
mình
để
hướng
tới
một
chất
lượng
giáo
dục
thực
chất.
Điều
này
đòi
hỏi
việc
quản
lý
chất
lượng
cũng
phải
có
sự
đổi
mới,
tăng
thêm
trách
nhiệm
của
người
thầy
thay
vì
trách
nhiệm
chỉ
thuộc
về
Ban
giám
hiệu
như
lâu
nay
chúng
ta
vẫn
quan
niệm.
*PV:
Một
trong
những
trọng
tâm
của
năm
học
mới
2013-2014,
theo
QĐ
của
Thành
phố,
Hà
Nội
sẽ
bắt
tay
vào
xây
dựng
35
trường
công
lập
chất
lượng
cao
(CLC)
trên
cơ
sở
các
tiêu
chí
về
cơ
sở
vật
chất,
đội
ngũ,
chương
trình,
cơ
chế
tài
chính
đã
được
HĐND
TP
Hà
Nội
thông
qua.
Xin
Giám
đốc
nói
rõ
hơn
việc
này?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:
Trên
thực
tế,
từ
năm
2009,
HĐND
TP
Hà
Nội
có
Nghị
quyết
số
06/2009/NĐ-HĐND
về
đẩy
mạnh
xã
hội
hóa
giáo
dục
đào
tạo
và
y
tế
của
TP
Hà
Nội
giai
đoạn
2009-2015
theo
tinh
thần
của
Nghị
quyết
số
35/2009/NQ-QH12
của
Quốc
hội
Khóa
XII
về
chủ
trương,
định
hướng
đổi
mới
cơ
chế
tài
chính
trong
giáo
dục
đào
tạo,
theo
đó:
“Thí
điểm
chuyển
30
đến
35
trường
công
lập
có
điều
kiện
phát
triển
thực
hiện
đảm
bảo
chi
phí
thường
xuyên
và
hoạt
động
theo
mô
hình
cung
ứng
dịch
vụ
chất
lượng
cao”.Đến
nay
đã
có
18
trường
đang
thực
hiện
thí
điểm
theo
mô
hình
này.
Luật
Thủ
đô
số
25/2012/QH13
vừa
được
Quốc
hội
thông
qua
có
quy
định:
“Xây
dựng
một
số
cơ
sở
giáo
dục
mầm
non,
giáo
dục
phổ
thông
chất
lượng
cao
trên
địa
bàn
Thủ
đô
theo
các
tiêu
chí
về
cơ
sở
vật
chất,
đội
ngũ
giáo
viên,
chương
trình,
phương
pháp
giảng
dạy
và
dịch
vụ
giáo
dục.
Việc
theo
học
tại
các
cơ
sở
giáo
dục
chất
lượng
cao
theo
nguyên
tắc
tự
nguyện”;
Thực
hiện
Luật
Thủ
đô,
ngày
17/7/2013,
HĐND
TP
Hà
Nội
đã
ban
hành
Nghị
quyết
số
15/2013/NQ-HĐND
về
cơ
chế
tài
chính
áp
dụng
đối
với
các
cơ
sở
giáo
dục
chất
lượng
cao
trên
địa
bàn
Thủ
đô,
theo
đó:
Mức
trần
học
phí
của
cơ
sở
giáo
dục
công
lập
CLC
năm
học
2013
-
2014
từ
2,9
triệu
đồng/hs/tháng
đến
3,0
triệu
đồng/hs/tháng.
Căn
cứ
mức
trần
này,
thủ
trưởng
cơ
sở
giáo
dục
công
lập
CLC
được
thí
điểm
phải
căn
cứ
điều
kiện
KT-XH
của
địa
bàn,
cùng
với
cam
kết
thực
hiện
chất
lượng
cao
theo
tiêu
chí
về
cơ
sở
vật
chất,
đội
ngũ
giáo
viên,
chương
trình,
phương
pháp
giảng
dạy
và
kết
quả
kiểm
định
để
quyết
định
mức
thu
học
phí
sau
khi
có
sự
thống
nhất
bằng
văn
bản
của
UBND
quận,
huyện,
thị
xã
hoặc
Sở
GD&ĐT
theo
phân
cấp
quản
lý.
Các
trường
đang
thực
hiện
thí
điểm
theo
Nghị
quyết
06/2009/NQ-HĐND
(mô
hình
cung
ứng
dịch
vụ
CLC),
sau
khi
được
thẩm
định
nếu
đạt
đủ
điều
kiện
sẽ
được
thí
điểm
thực
hiện
cơ
chế
trường
CLC,
nếu
không
đạt
sẽ
chuyển
lại
thành
các
trường
công
lập
bình
thường.
Như
vậy,
việc
thành
lập
một
số
trường
MN
và
PT
chất
lượng
cao
tại
Hà
Nội
là
phù
hợp
với
qui
định
của
Luật
Thủ
đô,
đáp
ứng
nhu
cầu
xã
hội.
Bên
cạnh
các
cơ
sở
pháp
lý
thì
căn
cứ
theo
thực
tiễn
nhu
cầu
học
tập
rất
đa
dạng
của
nhân
dân,
ngành
GD
đã
tham
mưu
xây
dựng
mô
hình
trường
công
CLC
bên
cạnh
các
trường
tổ
chức
học
cho
những
HS
năng
khiếu,
HS
giỏi.
Đó
là:
trường
THPT
chuyên
Hà
Nội
-
Amsterdam,
trường
THPT
chuyên
Nguyễn
Huệ,
trường
THPT
có
lớp
chuyên
như
THPT
Chu
Văn
An,
THPT
Sơn
Tây
đã
đáp
ứng
gần
3%
nhu
cầu
học
tập,
ngoài
ra
còn
có
các
trường
có
yếu
tố
nước
ngoài;
trường
công
lập…,
đáp
ứng
nhu
cầu
học
tập
đa
dạng
của
nhân
dân.
Ngành
đã
tham
mưu
UBND
TP
ban
hành
02
Quyết
định
20/2013/QÐ-UBND
và
Quyết
định
21/2013/QÐ-UBND.
Theo
đó,
nhấn
mạnh
5
tiêu
chí:
cơ
sở
vật
chất,
đội
ngũ
CBQL-GV,
chương
trình,
phương
pháp
giảng
dạy,
dịch
vụ
trong
giáo
dục;
đồng
thời
xây
dựng
quy
định
về
việc
bổ
sung
chương
trình
giảng
dạy
nâng
cao
của
các
trường,
trong
đó
nói
rõ
về
việc
xây
dựng
và
thẩm
định
chương
trình
giáo
dục
bổ
sung.
Tùy
theo
cấp
học,
các
yêu
cầu
trong
từng
tiêu
chí
có
sự
điều
chỉnh,
song
đều
hướng
tới
mục
đích
cuối
cùng
là
bảo
đảm
điều
kiện
chăm
sóc,
dạy,
học
tốt
nhất
để
tạo
ra
những
"sản
phẩm"
có
chất
lượng
toàn
diện.
Chủ
trương
của
TP
là
trường
công
lập
CLC
chỉ
tổ
chức
ở
những
khu
vực
đủ
chỗ
học
cho
học
sinh
trên
địa
bàn.
Đây
là
mô
hình
mới
tạo
đà
cho
giáo
dục
Hà
Nội
phát
triển
và
chủ
động
hội
nhập
với
khu
vực
và
quốc
tế.
*
Tuy
nhiên,
dư
luận
còn
nhiều
băn
khoăn
về
mô
hình
này.
Xin
Giám
đốc
giải
thích
rõ
hơn
về
mục
đích
xây
dựng
mô
hình
mới
trong
hệ
thống
giáo
dục
Thủ
đô?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:
Như
trên
đã
nói,
một
trong
những
nguyên
tắc
bắt
buộc
khi
triển
khai
mô
hình
này
là
chỉ
phát
triển
trường
CLC
ở
những
khu
vực
đã
có
đủ
chỗ
học
cho
HS
và
việc
theo
học
là
tự
nguyện.
Tùy
theo
điều
kiện
và
khả
năng,
HS
có
quyền
quyết
định
lựa
chọn
mô
hình
học
phù
hợp. Mô
hình
trường
CLC
của
Hà
Nội
được
Nhà
nước
đầu
tư
cơ
sở
vật
chất,
thiết
bị
ban
đầu
và
có
lộ
trình
để
tiến
tới
thực
hiện
tự
chủ
toàn
phần
theo
NĐ
43
của
Chính
phủ.
Thời
gian
qua,
thực
hiện
Chương
trình
07
của
Thành
ủy
Hà
Nội
khoá
14
về
phát
triển
một
số
ngành
cung
ứng
dịch
vụ
trình
độ
chất
lượng
cao,
trong
đó
có
ngành
GD
và
ÐT
cho
phép
18
trường
thực
hiện
thí
điểm
mô
hình
trường
CLC
đã
được
người
dân
Thủ
đô
đánh
giá
cao.
Với
phương
thức
tuyển
sinh
công
khai,
minh
bạch,
bình
đẳng
cho
mọi
đối
tượng
học
sinh,
bảo
đảm
quyền
được
học,
cơ
hội
học
tập
của
trẻ
em.
Học
sinh
Thủ
đô
đã
được
học
tập,
rèn
luyện
trong
những
môi
trường
giáo
dục
tiệm
cận
tiên
tiến,
hiện
đại,
được
thụ
hưởng
các
điều
kiện
về
cơ
sở
vật
chất
và
giáo
dục
CLC
giống
như
những
cơ
sở
giáo
dục
có
yếu
tố
nước
ngoài
nhưng
chi
phí
lại
thấp
hơn
nhiều
lần.
*
PV:
Các
trường
học
nằm
trong
kế
hoạch
xây
dựng
trường
công
lập
CLC
cần
chuẩn
bị
những
gì
để
triển
khai
mô
hình
này
đạt
hiệu
quả,
đáp
ứng
nhu
cầu
và
niềm
tin
của
xã
hội,
thưa
Giám
đốc?
-
Giám
đốc
Nguyễn
Hữu
Độ:
Theo
phân
cấp,
thời
gian
tới
đây,
các
quận
huyện
theo
kế
hoạch
của
UBND
sẽ
tiến
hành
xây
dựng
mô
hình
trường
công
lập
CLC.
Vấn
đề
đặt
ra
của
Thành
phố
là
tổ
chức
kiểm
định,
đánh
giá
trường
được
công
nhận
CLC.
Ngành
GD
tham
mưu
với
TP
ban
hành
qui
trình
kiểm
định
trường
đạt
CLC.
TP
sẽ
lập
hội
đồng
kiểm
định,
giao
Giám
đốc
Sở
GD&ĐT
chủ
trì
để
thành
lập
đoàn
kiểm
định.
Về
qui
trình,
dự
kiến
các
trường
tự
kiểm
định
theo
qui
chế
được
ban
hành,
sau
đó
đề
xuất
lên
phòng
GD&ĐT
(với
các
trường
MN,
TH,
THCS),
lên
Sở
GD&ĐT
(với
các
trường
THPT).
Trường
thuộc
khối
quận,
huyện,
UBND
quận
sẽ
thẩm
định
đề
xuất
của
các
đơn
vị
trực
thuộc,
sau
đó
có
văn
bản
đề
xuất
lên
UBND
TP.
Hội
đồng
kiểm
định
TP
sẽ
tiến
hành
kiểm
định
chất
lượng
nhà
trường.
Nếu
đạt
yêu
cầu
sẽ
có
văn
bản
đề
xuất
báo
cáo
UBND
TP
để
ra
QĐ
công
nhận
trường
CLC.
Khi
trường
đạt
các
yêu
cầu
đề
ra,
TP
sẽ
công
khai
với
nhân
dân
về
tất
cả
các
tiêu
chí,
cam
kết
chất
lượng
của
nhà
trường.
Hiện
nay,
Sở
GD&ĐT
đang
chuẩn
bị
ra
QĐ
thành
lập
Hội
đồng
khoa
học
của
từng
cấp
học
để
thẩm
định
các
chương
trình
bổ
sung
giảng
dạy
trong
trường
CLC
theo
QĐ
20,21
của
UBND
TP.
Với
việc
tổ
chức
mô
hình
trường
công
CLC,
Hà
Nội
có
điều
kiện
để
đáp
ứng
với
đa
dạng
nhu
cầu
học
tập
của
nhân
dân
và
cũng
chủ
động
để
hội
nhập
với
giáo
dục
với
các
nước
trong
khu
vực
và
quốc
tế.
Trong
tương
lai,
nhà
nước,
Thành
phố
vẫn
sẽ
tiếp
tục
tăng
cường
đầu
tư
cơ
sở
vật
chất,
đội
ngũ
GV
cho
các
nhà
trường
học
trên
địa
bàn
thành
phố
để
góp
phần
nâng
cao
chất
lượng
giáo
dục
đào
tạo
Thủ
đô
*PV:
Xin
cảm
ơn
Giám
đốc! |